Tái chế – Doisonggiadinh.com https://doisonggiadinh.com Kết nối yêu thương – Chia sẻ kiến thức xây dựng tổ ấm bền vững. Wed, 06 Aug 2025 20:44:38 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/home-icon.svg Tái chế – Doisonggiadinh.com https://doisonggiadinh.com 32 32 TP HCM: Doanh nghiệp gặp khó với dự án xử lý rác phát điện https://doisonggiadinh.com/tp-hcm-doanh-nghiep-gap-kho-voi-du-an-xu-ly-rac-phat-dien/ Wed, 06 Aug 2025 20:44:36 +0000 https://doisonggiadinh.com/tp-hcm-doanh-nghiep-gap-kho-voi-du-an-xu-ly-rac-phat-dien/

TP.HCM đang đối mặt với thách thức lớn trong việc triển khai các dự án đốt rác phát điện như một giải pháp thay thế cho chôn lấp hợp vệ sinh. Tại một buổi giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường tại TP.HCM, ông Nguyễn Hồng Nguyên, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP.HCM, cho biết thành phố đang xử lý khoảng 14.000 tấn rác sinh hoạt mỗi ngày. Tuy nhiên, chỉ khoảng 40% rác sinh hoạt được xử lý bằng công nghệ đốt, compost, tái chế, trong khi phần còn lại được chôn lấp hợp vệ sinh.

Các doanh nghiệp tại TP.HCM đang gặp khó khăn khi thực hiện các thủ tục để triển khai dự án đốt rác phát điện. Ông Nguyễn Văn An, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, đánh giá rằng việc triển khai các dự án đốt rác phát điện tại TP.HCM còn chậm. Ông cũng nhấn mạnh rằng cần có sự hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc triển khai các dự án này.

Bà Huỳnh Lan Phương, Phó Tổng giám đốc Công ty TNHH xử lý chất thải Việt Nam, cho rằng quy trình thẩm định, phê duyệt dự án chuyển đổi công nghệ đốt rác phát điện còn phức tạp và cần có cơ chế giám sát và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Bà cũng đề xuất rằng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc triển khai các dự án đốt rác phát điện.

Đại diện Tổng công ty BIWASE cũng cho rằng việc xử lý rác sinh hoạt bằng phương pháp tái chế sâu đang gặp nhiều vướng mắc. Doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc xác định định mức tiêu hao chi phí cụ thể cho các công đoạn xử lý và hoạt động dịch vụ vận hành bảo trì. Điều này đòi hỏi sự can thiệp và hỗ trợ từ các cơ quan chức năng để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.

Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Văn Được cho biết thành phố đã có nhiều đơn vị thực hiện chuyển đổi công nghệ xử lý rác bằng công nghệ đốt rác phát điện. Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa giá thành và chi phí cho nhà đầu tư rất thấp, khiến TP.HCM kiến nghị Trung ương có chính sách về giá thành phù hợp để đảm bảo sự vận hành của nhà máy.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan đánh giá cao những kết quả đạt được của TP.HCM trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và nhấn mạnh rằng bảo vệ môi trường là yếu tố sống còn cho sự phát triển bền vững. Ông cũng chỉ đạo TP.HCM tiếp tục chủ động nghiên cứu kiến nghị sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường và đẩy mạnh nghiên cứu đổi mới ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong bảo vệ môi trường. Chính phủ cũng như Quốc hội sẽ tiếp tục quan tâm và hỗ trợ TP.HCM trong việc triển khai các dự án bảo vệ môi trường.

]]>
Ngành làm đẹp Pháp ‘nhận sai’ với bao bì https://doisonggiadinh.com/nganh-lam-dep-phap-nhan-sai-voi-bao-bi/ Mon, 04 Aug 2025 10:13:18 +0000 https://doisonggiadinh.com/nganh-lam-dep-phap-nhan-sai-voi-bao-bi/

Ngành công nghiệp mỹ phẩm tại Pháp đang trải qua một quá trình đánh giá lại các mô hình kinh doanh của mình trước những thách thức về môi trường và yêu cầu tái sử dụng bao bì. Luật chống lãng phí vì nền kinh tế tuần hoàn (AGEC) của Pháp đặt ra mục tiêu tham vọng là tái sử dụng bao bì lên tới 7% vào cuối năm 2025 và 10% vào năm 2027. Trước bối cảnh pháp lý này, sáu đơn vị trong ngành đã ra mắt một chương trình thí điểm mang tên “La Boucle Beauté Parfums”, được triển khai từ ngày 30 tháng 6 đến ngày 31 tháng 10 tại 192 điểm bán hàng trên khắp Pháp.

Chương trình thí điểm này được khởi xướng bởi Circul’R với sự hỗ trợ của We Don’t Need Roads và tổ chức sinh thái Citeo. Nó tập hợp bốn thương hiệu lớn: Parfums Christian Dior (LVMH), Diptyque, Kenzo Parfums (L’Oréal), và Rochas (Interparfums), cũng như hai nhà phân phối, Nocibé và Beauty Success. Mục đích chính của chương trình là thử nghiệm một hệ thống tái sử dụng chai nước hoa trên quy mô lớn. Khách hàng có thể mang chai nước hoa đã qua sử dụng của các thương hiệu tham gia, bao gồm dòng sản phẩm J’adore, Flower by Kenzo, Eau de Rochas, và Diptyque, để đổi lấy phần thưởng do mỗi thương hiệu chọn.

Các chai được thu thập sau đó sẽ được phân loại và rửa tại một trung tâm chuyên dụng sử dụng logistics chung, trước khi được tái điều chỉnh để lưu hành lại. Quá trình làm sạch, rất quan trọng để đảm bảo chất lượng tái sử dụng, dựa trên quy trình rửa bằng CO₂ – một quy trình sáng tạo không sử dụng nước, chất tẩy rửa, hay dung môi.

Sixtine Jourde-Roussel, giám đốc liên minh của Circul’R, cho biết: “Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm từ thí điểm đầu tiên với sản phẩm chăm sóc da, chúng tôi hiện đang ra mắt thí điểm mới này dành riêng cho nước hoa. Tiếp cận dần dần theo loại hình sản phẩm cho phép chúng tôi xây dựng một nền tảng vững chắc và thực tế cho tái sử dụng trong mỹ phẩm”.

Mặc dù chương trình thí điểm tái sử dụng chai này hứa hẹn một dấu chân môi trường thấp, nó vẫn cần phải chứng minh giá trị kỹ thuật của mình. Thông tin phản hồi từ thí điểm sẽ được sử dụng cho một loạt các phân tích môi trường và kinh tế, bao gồm tiêu thụ nước và năng lượng. Mô hình kinh tế cũng sẽ được thực hiện để xác định điều kiện cho khả năng tồn tại của một hệ thống như vậy trên quy mô lớn. Đồng thời, một nghiên cứu người tiêu dùng sẽ phân tích nhu cầu của khách hàng đối với mô hình mới này.

Jourde-Roussel cũng nhấn mạnh: “Chúng tôi cần khối lượng để tái sử dụng tạo ra động lực và kinh tế规模. Điều này có nghĩa là xem xét lại giá trị của một chai nước hoa, không chỉ như bao bì, mà như một vật thể bền vững, có khả năng sử dụng trong các dòng sản phẩm ít cao cấp hơn hoặc thị trường thứ cấp”.

Sản xuất thủy tinh vẫn là một trong những quy trình tiêu tốn nhiều năng lượng nhất trong ngành công nghiệp mỹ phẩm và nước hoa. Sáng kiến này có thể trở thành bước đầu tiên hướng tới tiêu chuẩn hóa tái sử dụng trong thế giới nước hoa cao cấp, một ngành lâu nay thống trị bởi bao bì sử dụng một lần.

]]>
Dệt may chuyển dịch sang kinh tế tuần hoàn https://doisonggiadinh.com/det-may-chuyen-dich-sang-kinh-te-tuan-hoan/ Sun, 27 Jul 2025 14:34:52 +0000 https://doisonggiadinh.com/det-may-chuyen-dich-sang-kinh-te-tuan-hoan/

Chuyển đổi tuần hoàn chính là chìa khóa để phát triển bền vững, nâng cao giá trị gia tăng và đảm bảo khả năng tồn tại, giúp các doanh nghiệp chiếm ưu thế cạnh tranh trong tương lai. Việc chuyển đổi theo mô hình kinh tế tuần hoàn không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu bắt buộc đối với ngành dệt may.

Kinh tế tuần hoàn là mô hình kinh tế hướng tới sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, tái chế chất thải, góp phần bảo vệ môi trường và đem lại hiệu quả kinh tế. Mô hình này bao gồm 3 nội dung cốt lõi: Giảm thiểu tối đa phát thải ra môi trường thông qua sử dụng tối ưu nhất tài nguyên và năng lượng; tái sử dụng, sửa chữa, bảo dưỡng kéo dài thời gian sử dụng sản phẩm; tái chế, tận dụng phế liệu, phế thải trở thành đầu vào sản xuất.

Ngành công nghiệp dệt may đang nỗ lực không ngừng để phát triển theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Trong giai đoạn 2025-2030, ngành dệt may Việt Nam đặt mục tiêu phát triển theo chiều sâu, đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ, nâng cao năng suất, giảm phụ thuộc lao động phổ thông. Để chuyển sang kinh tế tuần hoàn, các doanh nghiệp dệt may cần giảm dùng sợi nguyên sinh hóa thạch, tăng tỷ lệ polyester tái chế; phát triển sợi cellulose tái tạo thay polyester; thiết kế sản phẩm bằng sợi đơn chất (cotton 100%, polyester 100%) để tái chế dễ dàng; sử dụng nguyên liệu sinh học thay thế một phần polyester.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, trong khi polyester thông thường phải mất đến 500-1.000 năm mới phân hủy hoàn toàn, thì nguyên liệu polyester tái chế khi được vùi trong đất có khả năng phân hủy đến 68,8% sau 180 ngày. Đồng thời, chuyển đổi sang thuốc nhuộm gốc nước, ít độc hại, dễ phân hủy. Ứng dụng công nghệ nhuộm mới như nhuộm CO₂ siêu tới hạn, nhuộm foam, nhuộm plasma.

Mục tiêu tái chế hợp lý đặt ra yêu cầu điều chỉnh quy trình thiết kế và tái chế quần áo. Hiện nay, việc thiết kế và sản xuất quần áo thường không tính đến điều gì sẽ xảy ra khi quần áo không thể sử dụng được nữa. Các chuyên gia cho rằng, việc hướng tới nhiều loại vật liệu và phát triển các quy trình tái chế hiệu quả cho những vật liệu này là một bước quan trọng trong việc mở rộng quy mô tái chế, cũng như việc phát triển các vật liệu mới.

Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp như TCM – Dệt may Thành Công đã và đang đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm, đặc biệt những sản phẩm thân thiện với môi trường, những sản phẩm tái chế và những sản phẩm có giá trị cao, có quy trình sản xuất khép kín từ sợi – dệt – nhuộm – may, phát triển bền vững (ESG), tăng cường sử dụng 3 loại vật liệu polyester, viscose, cotton tái chế.

Tái chế hợp lý trong ngành dệt may còn gắn liền với yêu cầu đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ xanh để cải thiện tính kinh tế và chất lượng tái chế. Tiến sỹ Nguyễn Thị Thanh Phượng, Viện trưởng Viện Công nghiệp môi trường, cho rằng, cần có một chương trình đổi mới chung để tập trung nỗ lực và đầu tư vào công nghệ tái chế các vật liệu thông thường; cải tiến công nghệ phân loại cũng sẽ hỗ trợ nâng cao chất lượng tái chế bằng cách cung cấp nguyên liệu được xác định rõ ràng.

Với vai trò hạt nhân ngành dệt may, Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đặt mục tiêu đến 2030 đạt mức tăng trưởng hai con số, phát triển bền vững theo kinh tế tuần hoàn, xây dựng thương hiệu xuất khẩu riêng. Hiện tỷ lệ sản phẩm xanh của Vinatex đã đạt 25%; toàn hệ thống đã đưa vào sản xuất sản phẩm sợi từ nguyên liệu tái chế tăng cao hàng năm, đến năm 2024 đạt 17.864 tấn.

Ngành dệt may Việt Nam hiện đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia; xuất khẩu dệt may trị giá 44 tỷ USD năm 2024, giữ vị trí thứ hai thế giới. Mục tiêu năm 2025 đạt 47-48 tỷ USD. Hướng đi tới kinh tế tuần hoàn của dệt may Việt Nam nhằm phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, sức khỏe con người, góp phần thực hiện mục tiêu chung của quốc gia và toàn cầu về Net Zero, đồng thời còn tận dụng cơ hội để nâng cao năng lực cạnh tranh, giữ vững vị thế xuất khẩu hàng đầu thông qua việc đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về sản phẩm xanh của nhà nhập khẩu.

]]>
Tái chế phụ phẩm nông nghiệp: Nâng tỷ lệ lên 70% vào năm 2030 https://doisonggiadinh.com/tai-che-phu-pham-nong-nghiep-nang-ty-le-len-70-vao-nam-2030/ Thu, 24 Jul 2025 16:40:38 +0000 https://doisonggiadinh.com/tai-che-phu-pham-nong-nghiep-nang-ty-le-len-70-vao-nam-2030/

Ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn trong việc quản lý phụ phẩm nông nghiệp. Mỗi năm, Việt Nam tạo ra hơn 156 triệu tấn phụ phẩm như rơm rạ, vỏ trấu, bã mía, vỏ cà phê và chất thải chăn nuôi. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 10-35% trong số này được tái chế hoặc tái sử dụng, phần còn lại bị thải bỏ ra môi trường, gây lãng phí tài nguyên và ô nhiễm sinh thái.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết ngành nông nghiệp không chỉ tạo ra một khối lượng lớn phụ phẩm mà còn là ngành phát thải khí nhà kính lớn thứ hai của Việt Nam, chỉ sau ngành năng lượng. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho ngành nông nghiệp trong việc tìm kiếm giải pháp quản lý phụ phẩm một cách hiệu quả và bền vững.

Hiện nay, nhiều giải pháp đã được đề xuất để quản lý phụ phẩm nông nghiệp, bao gồm việc tái sử dụng và tái chế các loại phụ phẩm này. Một số doanh nghiệp đã áp dụng công nghệ để biến phụ phẩm thành các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, như sản xuất viên nhiên liệu từ rơm rạ, sử dụng bã mía để sản xuất giấy, và tái chế vỏ cà phê thành phân bón hữu cơ.

Tuy nhiên, để giải quyết triệt để vấn đề phụ phẩm nông nghiệp, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan, bao gồm cả doanh nghiệp, nông dân, và các cơ quan quản lý nhà nước. Đồng thời, cần có các chính sách hỗ trợ và khuyến khích để thúc đẩy việc tái sử dụng và tái chế phụ phẩm nông nghiệp, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên.

Trong thời gian tới, ngành nông nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao hiệu quả quản lý phụ phẩm. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ biến các mô hình tái chế và tái sử dụng phụ phẩm cũng là cần thiết để nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về tầm quan trọng của việc quản lý phụ phẩm nông nghiệp một cách bền vững.

Có thể thấy, việc quản lý phụ phẩm nông nghiệp là một thách thức lớn nhưng cũng là cơ hội để ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Bằng cách áp dụng các giải pháp sáng tạo và phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan, hy vọng rằng ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ sớm giải quyết được vấn đề phụ phẩm và hướng tới một tương lai phát triển bền vững.

]]>